Thứ Năm, 4 tháng 8, 2016

Thiền sư Thích Nhất Hạnh kể chuyện tình yêu và tình dục

Trong tình yêu lớn và cao quý, bất cứ lời nói và cử chỉ nào cũng phải biểu lộ sự tương kính. Người con trai phải tôn trọng người con gái mình yêu, cả thân thể lẫn tâm hồn.
Người con gái biết giữ gìn, cũng là biết làm người yêu thêm tương kính, nuôi dưỡng hạnh phúc lâu dài về sau.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể một câu chuyện tình yêu: Có một chàng trai ở vùng California – Mỹ, rất đẹp trai, học giỏi, tốt nghiệp một trường đại học nổi tiếng, có nhiều bạn gái xinh đẹp. Chàng trai sống với mẹ, người mẹ biết trong các cô gái ngưỡng mộ con mình, có một cô gái không xinh nhất, cô không trắng, không cao lắm nhưng được chàng trai đặc biệt chú ý. Ngạc nhiên, người mẹ hỏi con trai: Vì sao con lại thích cô gái ấy, cô ta đâu có gì nổi bật?
Cô ấy hiểu con – chàng trai trả lời đơn giản.
Chàng trai học ngành công nghệ thông tin nhưng rất hay làm thơ. Mỗi lần chàng đọc thơ, cô gái nọ lắng nghe rất chăm chú và có những nhận xét sâu sắc, trong khi những cô gái xinh đẹp kia không để ý gì đến. Chàng trai đã chọn người yêu không vì vẻ đẹp bề ngoài, mà bởi sự lắng nghe và thấu hiểu.
“Đạo Phật cũng dạy như vậy, có hiểu mới có thương, tình yêu phải làm bằng sự hiểu biết”, thiền sư kết luận.
Muốn thương phải hiểu
Trong đạo Phật, từ bi gắn liền với trí tuệ. Không hiểu, không thể thương yêu sâu sắc. Không hiểu, không thể thương yêu đích thực. Hiểu chính là nền tảng của tình thương yêu.
Mỗi người có những nỗi niềm, những khổ đau, bức xúc riêng, nếu không hiểu, sẽ không thương mà giận hờn, trách móc. Không hiểu, tình thương của mình sẽ làm người khác ngột ngạt, khổ đau. Không hiểu, sẽ làm người mình thương đau khổ suốt đời.
Nhân danh tình thương, người ta làm khổ nhau. Chuyện đó vẫn thường xảy ra.
Được hiểu và được thương vốn là một nhu cầu muôn đời của con người. Nhiều người thường cảm thấy không ai hiểu mình. Họ “đói” thương, “đói” hiểu. Họ thơ thẩn, lang thang trong cuộc đời tìm người hiểu mình, thương mình. Gặp được người hiểu mình, thương mình là may mắn lớn của cuộc đời. Tình yêu nảy nở, lớn lên từ đó.
Vậy nên, “có hiểu mới có thương” là nguyên tắc chọn người yêu, chọn chồng/vợ theo quan điểm Phật giáo. Dù người ta có đẹp, có giàu đến đâu nhưng không hiểu mình sẽ làm mình khổ suốt đời. Hôn nhân có thể mở ra những con đường hoa hồng, có thể mở ra cánh cửa tù ngục. Chọn vợ, chọn chồng là một sự mạo hiểm lớn. Hãy cẩn thận, nếu không muốn chọn án tù chung thân cho cuộc đời mình.
Chọn người hiểu và thương mình – hãy nhớ – đó là nguyên tắc tìm người tri kỷ trong cuộc đời.
Phật dạy về tình yêu rất sâu sắc. Tình yêu phải hội tụ đủ bốn yếu tố: từ, bi, hỉ, xả.
“Từ” là khả năng hiến tặng hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu thương không phải là vấn đề hưởng thụ, yêu thương là hiến tặng. Tình thương mà không đem đến hạnh phúc cho người yêu không phải là tình thương đích thực. Yêu mà làm khổ nhau không phải tình yêu. Có những người yêu nhau, ngày nào cũng khổ, đó là tình yêu hệ lụy, chỉ mang tới sự khổ đau. Yêu thương ai đó thực sự, nghĩa là làm cho người ta hạnh phúc, mỗi ngày.
“Bi” là khả năng người ta lấy cái khổ ra khỏi mình. Mình đã khổ, người ta làm cho thêm khổ, đó không thể là tình yêu đích thực. Còn gì cho nhau nếu chỉ có khổ đau tuyệt vọng. Người yêu mình phải là người biết sẻ chia, biết xoa dịu, làm vơi bớt nỗi khổ của mình trong cuộc đời.
Như vậy, “từ bi” theo Phật dạy là khả năng đem lại hạnh phúc cho nhau. Yêu thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ. Nếu không, chỉ là đam mê, say đắm nhất thời, không phải là tình yêu thương đích thực. “Từ bi” trong tình yêu không phải tự dưng mà có. Phải học, phải “tu tập”. Cần nhiều thời gian, để quan sát, để lắng nghe, để thấu hiểu những nỗi khổ niềm đau của người yêu, để giúp người ta vượt qua, tháo gỡ, bớt khổ đau, thêm hạnh phúc.
“Hỉ” là niềm vui, tình yêu chân thật phải làm cho cả hai đều vui. Dấu ấn của tình yêu đích thực là niềm vui. Càng yêu, càng vui, niềm vui lớn, cả gia đình cùng hạnh phúc. Cuộc nhân duyên như thế là thành công.
“Xả” là không phân biệt, kì thị trong tình yêu. Mình yêu ai, hạnh phúc của người ta là của mình, khó khăn của người ta là của mình, khổ đau của người ta là của mình. Không thể nói đây là vấn đề của em/ anh, em/ anh ráng chịu. Khi yêu, hai người không phải là hai thực thể riêng biệt nữa, hạnh phúc khổ đau không còn là vấn đề cá nhân. Tất cả những gì mình phải làm coi đó là vấn đề của hai người, chuyển hóa nỗi khổ đau, làm lớn thêm hạnh phúc.
Này người trẻ, bạn nghĩ về tình yêu của mình đi, có “từ bi hỉ xả không”? Bạn hãy can đảm tự hỏi mình rằng “Người yêu ta có hiểu niềm vui nỗi khổ của ta không? Có quan tâm đến an vui hàng ngày của ta không? Người ấy có nâng đỡ ta trên con đường sự nghiệp không?…” Và tự hỏi lại mình, liệu bạn có đang thành thực với tình yêu của mình?! Liệu tình yêu của bạn đã đủ “từ bi hỉ xả”?!
Tình dục và tình yêu
Phật giáo quan niệm như thế nào về tình dục trong tình yêu? Không phải ngẫu nhiên mà vị thiền sư tôi được hạnh ngộ bắt đầu vấn đề này bằng cách bàn về “thân tâm” trong truyền thống văn hóa Á Đông.
Trong truyền thống văn hóa ta, thân với tâm là “nhất như”, tức là nếu ta không tôn kính thân thể người yêu thì cũng không tôn kính được tâm hồn người ấy. Yêu nhau là giữ gìn cho nhau, kính trọng nhau. Khi sự rẻ rúng xem thường xảy ra thì tình yêu đích thực không còn.
Thân thể ta cũng như tâm hồn ta. Có những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn, chúng ta chỉ chia sẻ với người tri kỉ. Thân thể ta cũng vậy, có những vùng thiêng liêng và riêng tư, ta không muốn ai chạm tới, ngoài người ta yêu, ta tin, ta muốn sống trọn đời, trọn kiếp.
Người con gái biết giữ gìn, cũng là biết làm người yêu thêm tương kính, nuôi dưỡng hạnh phúc lâu dài về sau.
Bạn muốn thương yêu theo phương pháp Phật dạy chăng? Hãy hiểu, thương và tương kính người yêu của mình, cũng chính là đem hạnh phúc đến cho người và cho mình vậy!
Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Vincent van Gogh

Vincent Willem van Gogh (sinh ngày 30 tháng 3 năm 1853, mất ngày 29 tháng 7 năm 1890), thường được biết đến với tên Vincent van Gogh  là một danh hoạ Hà Lan thuộc trường phái hậu ấn tượng Nhiều bức tranh của ông nằm trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất, được yêu thích nhất và cũng đắt nhất trên thế giới. Van Gogh là nghệ sĩ tiên phong của trường phái biểu hiện và có ảnh hưởng rất lớn tới mỹ thuật hiện đại, đặc biệt là tới trường phái dã thú (Fauvism) và trường phái biểu hiện tại Đức.
Thời thanh niên, Van Gogh làm việc trong một công ty buôn bán tranh, sau đó là giáo viên và nhà truyền giáo tại một vùng mỏ nghèo. Ông thực sự trở thành họa sĩ từ năm 1880 khi đã 27 tuổi. Thoạt đầu, Van Gogh chỉ sử dụng các gam màu tối, chỉ đến khi được tiếp xúc với trường phái ấn tượng (Impressionism) và Tân ấn tượng (Neo-Impressionism) ở Paris, ông mới bắt đầu thay đổi phong cách vẽ của mình. Trong thời gian ở Arles miền Nam nước Pháp, Van Gogh kết hợp các màu sắc tươi sáng của hai chủ nghĩa này với phong cách vẽ của mình để tạo nên các bức tranh có phong cách rất riêng. Chỉ trong 10 năm cuối đời, họa sĩ đã sáng tác hơn 2000 tác phẩm, trong đó có khoảng 900 bức họa hoàn chỉnh và 1100 bức vẽ hoặc phác thảo. Phần lớn các tác phẩm nổi tiếng nhất của Van Gogh được sáng tác vào hai năm cuối đời, thời gian ông lâm vào khủng hoảng tinh thần tới mức tự cắt bên tai trái vì tình bạn tan vỡ với họa sĩ Paul Gauguin. Sau đó Van Gogh liên tục phải chịu đựng các cơn suy nhược thần kinh và cuối cùng ông đã tự kết liễu đời mình.





















Những tháng ngày cuối cùng của van Gogh

Cuộc đời của Vincent van Gogh là sự đan xen giữa những giây phút tỉnh táo và mất trí.
Những tháng ngày cuối cùng của van Gogh
Chân dung tự họa của van Gogh năm 1889
Danh họa trải qua những khoảnh khắc hạnh phúc khi ông lạc quan về sự nghiệp hội họa của mình và về những công trình mà ông đang sáng tác. Ông cũng có nhiều khi rơi vào tuyệt vọng khi nhận ra mình bị bệnh và căn bệnh này sẽ khiến ông không thể sống cuộc đời bình thường được. Tuy nhiên, xuyên suốt những giai đoạn lên xuống thất thường đó, ông cũng có cho mình một vài điều bất biến – đó là khao khát vẽ và người em trai Theo. Theo luôn chăm sóc cho Vincent, cả về mặt tinh thần và vật chất. Nhưng ngay cả Theo, người em trai kiêm người bạn tâm tình của van Gogh, cũng không thể ngăn cản cái kết đầy bi kịch cho câu chuyện cuộc đời của họa sĩ.
Tại Arles, khi đang sống và vẽ tranh cùng Paul Gauguin, van Gogh lại gặp một đợt rối loạn tâm thần. Nhận thấy thần kinh của họa sĩ bị mất ổn định nghiêm trọng, những người gần gũi với ông, đặc biệt là Theo, đã giục ông vào điều trị trong một bệnh viện tâm thần gần Arles. Trong một lá thư gửi anh trai, Theo an ủi rằng đó chỉ là “một sự nghỉ ngơi tậm thời để anh quay lại với nguồn sức mạnh mới”. Nhận thức được tình trạng bệnh tật của mình, van Gogh đồng ý đi theo một bác sĩ vào viện. Nhưng ngay cả khi đó, vì biết rằng mình sẽ bị hạn chế nhiều, nên tâm trí họa sĩ vẫn hướng về những bức tranh. Ông viết thư cho Theo để bàn về tác phẩm mới của mình.

Đầu tháng Năm năm 1889, van Gogh chuyển vào Bệnh viện Tâm thần Saint-Paul ở Saint-Rémy. Trong một năm tiếp theo, hầu như van Gogh chỉ sinh hoạt trong khuôn viên bệnh viện. Tại đây, ông đã vẽ nên nhiều trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của mình như bức Hoa Diên Vĩ và Đêm Đầy Sao. Tháng Năm năm sau, ông viết thư cho Theo nói rằng: “Anh cảm thấy ổn định lại rồi, và trong tình trạng hiện nay, anh không cho rằng một đợt rối loạn thần kinh nào có thể dễ dàng xảy đến với anh đâu.” Cho rằng không còn việc gì làm ở Saint- Rémy nữa, van Gogh quay trở về bắc vào tháng Năm năm 1890.
Họa sĩ Camille Pissarro khuyên Theo nên đưa van Gogh tới Auvers-sur-Oise, phía bắc Paris, để điều trị với bác sĩ Gachet. Theo cho rằng van Gogh sẽ hòa hợp với bác sĩ Gachet bởi ông là người yêu thích nghệ thuật và sưu tập nhiều bức tranh của những nghệ sĩ mà van Gogh kính trọng. Khi tới Auvers, lúc đầu van Gogh không có ấn tượng gì đặc biệt với bác sĩ Gachet, nhưng cho rằng cứ nên thử xem sao. Ngay từ đầu van Gogh đã bỏ qua lời khuyên của bác sĩ Gachet, ông không thuê trọ ở quán rượu mà bác sĩ giới thiệu mà lại quyết định ở quán Auberge Ravoux.
Trong nhiều tuần lễ, tinh thần của van Gogh rất thoải mái. Ông tới thăm gia đình em trai Theo ở Paris, nhưng nhận thấy nhịp sống thành thị ồn ào quá nên ông quay trở về với khung cảnh thôn dã ở Auvers. Trong những tuần cuối cùng, ông đã vẽ 70 bức tranh – quả là một cách hoàn hảo để một người nghệ sĩ có thể khỏi bận tâm về chính mình. Ông vẽ cảnh thị trấn, phong cảnh, và con người. Ông cũng vẽ nhiều bức chân dung bác sĩ Gachet, người mà ông đang ngày càng có nhiều thiện cảm. Van Gogh cũng vẽ chân dung của Adeline Ravoux, cô con gái 13 tuổi của người chủ quán rượu nơi ông ở trọ. Tuy còn trẻ, song Adeline nhớ được rất nhiều chi tiết về thời gian van Gogh ở đó, và cô cũng là người chứng kiến những ngày cuối đời của họa sĩ.
Tháng Bảy năm 1890, dường như van Gogh đang có sức khỏe rất tốt. Ông không bị suy nhược thần kinh, không viết về những cơn điên, và vẽ rất nhiều. Tuy nhiên, có lẽ Theo đã cảm nhận được điều gì đó trong những lá thư của van Gogh. Ngày 22 tháng Bảy, Theo viết cho anh trai: “Em sợ là có điều gì đó đang khiến anh phiền lòng hay có trục trặc gì đó. Nếu đúng thế thì anh hãy tới gặp bác sĩ Gachet nhé.” Van Gogh viết thư hồi âm, song không nhắc tới chuyện bệnh tật hay các vấn đề về thần kinh mà chỉ nói về chuyện vẽ tranh.
Phần lớn những gì chúng ta biết được về những ngày cuối đời của Vincent van Gogh cũng như về cái chết của ông đều là qua lời tường thuật của cô bé Adeline Ravoux nhỏ tuổi. Cô kể lại rằng van Gogh duy trì một thói quen sống đều đặn hàng ngày. Buổi sáng ông thức dậy, ăn sáng rồi rời quán rượu để đi vẽ. Sau khi quay về quán để ăn trưa, ông hoặc là ở trong nhà để vẽ tiếp bức tranh còn dang dở hoặc là lại ra ngoài vẽ. Sau bữa tối, ông thường ở trong nhà chơi đùa cùng đứa bé con út của người chủ quán rượu hoặc viết thư. Adeline còn nhớ những đồ họa sĩ thường mặc trên người: một chiếc áo khoác ngắn màu xanh không cổ và một chiếc mũ phớt hoặc mũ rơm. Cô rất thích khi van Gogh ở lại nhà mình. Cô nói: “Ở Auvers, ông ấy lúc nào cũng ôn tồn và dịu dàng. Chúng tôi rất kính trọng ông ấy và thường gọi ông ấy một cách thân mật là ngài Vincent.”
Chủ nhật ngày 27 tháng Bảy năm 1890, van Gogh bắt đầu ngày mới như bình thường với bữa sáng. Họa sĩ rời quán trọ vào lúc trước 9 giờ sáng. Hôm đó, ông không về ăn trưa, cũng không về ăn tối. Gia đình Ravoux thấy lạ bởi van Gogh chưa từng phá lệ. Vào lúc 9 giờ tối, khi cả gia đình họ ngồi ngoài thềm cửa chờ thì van Gogh trở về. Adeline viết:
“Vincent đi cúi gập người, tay ôm bụng, thật khác với thói quen đi lệch vai của ông. Mẹ tôi cất tiếng hỏi: “Ngài Vincent, chúng tôi lo quá. Thật mừng khi thấy ngài quay lại. Ngài gặp chuyện gì sao?”
Ông trả lời, giọng khó khăn: “Không, nhưng tôi…” Ông không nói hết câu mà đi qua phòng khách, bước lên cầu thang và trèo lên phòng ngủ. Tôi đã chứng kiến cảnh đó. Khi ấy trông Vincent lạ quá, đến nỗi bố tôi phải đứng lên đi theo ông để nghe ngóng xem chuyện gì đang xảy ra.”
Nghe thấy tiếng rên, cha cô bước vào phòng và thấy van Gogh đang nằm trên giường, tay ôm bụng. Đáp lại câu hỏi của ông chủ quán trọ, van Gogh vén áo sơ mi lên, chỉ tay vào một vết thương gần tim và nói: “Tôi vừa định tự tử.”
Van Gogh kể lại chuyện ông đi tới cánh đồng lúa mì nơi ông từng vẽ. Theo Emile Bernard, người bạn nghệ sĩ kém van Gogh 15 tuổi, ông để giá vẽ dựa vào một đống cỏ khô và tới đi tới cánh đồng phía sau một tòa lâu đài. Vào buổi chiều, khi ngồi ở cánh đồng, van Gogh rút một khẩu súng lục ra và tự bắn vào mình. Vết thương không gây tử vong ngay lập tức và van Gogh ngã xuống đất nằm bất tỉnh. Nhiều giờ sau, không khí lạnh của buổi tối khiến van Gogh tỉnh dậy. Ông đứng lên và lảo đảo quay lại quán rượu.
Yêu cầu đầu tiên của họa sĩ là tẩu thuốc lá, và ông chủ nhà Ravoux đi châm tẩu thuốc cho ông. Theo yêu cầu của van Gogh, Ravoux cũng cho người đi gọi bác sĩ Gachet tới để băng bó vết thương. Vị bác sĩ đến nhưng không mấy lạc quan về khả năng qua khỏi của van Gogh. Khi bác sĩ Gachet bày tỏ mong ước có thể cứu được van Gogh, họa sĩ nói: “Nếu thế thì tôi phải làm lại một lần nữa.” Khi cảnh sát tới thẩm vấn, van Gogh nói: “Đừng kết tội ai cả, chính tôi muốn tự sát.” Cảnh sát để bác sĩ Gachet và ông Ravoux chăm sóc van Gogh đêm đó. Sáng hôm sau, họ gửi điện tín cho Theo, và Theo lập tức lên đường tới Auvers ngay chiều hôm đó. Tới chiều tối, van Gogh rơi vào trạng thái hôn mê và trút hơi thở cuối cùng lúc 1:30 sáng thứ Ba, ngày 29 tháng Bảy năm 1890.
Xung quanh cái chết của Vincent van Gogh còn có một giả thuyết khác do Steven Naifeh và Gregory White Smith đưa ra trong cuốn tiểu sử Van Gogh: Một cuộc đời ra mắt năm 2011. Họ cũng kết luận rằng vụ bắn xảy ra vào ngày 27 tháng Bảy, và họa sĩ có trở về quán trọ vào buổi tối như lời kể của Adeline Ravoux. Tuy nhiên, họ lại đưa ra giả thuyết khác về những gì xảy ra trên cánh đồng lúa mì. Naifeh và Smith cho rằng van Gogh bị hai thanh niên bắt nạt, trong đó có Rene Secretan lúc đó 16 tuổi. Trong cuộc phỏng vấn năm 1956, Secretan nói rằng anh và người em trai của mình từng lén bỏ rắn vào hộp vẽ của van Gogh và bỏ muối vào cốc cà phê của ông. Em trai Secretan thích ăn vận như cao bồi và hai anh em thường trêu chọc van Gogh, ném trái cây vào người ông. Hai tác giả này cho rằng một trong hai cậu bé khi đó cầm khẩu súng và súng vô tình cướp cò. Sẵn ý định tự tử, van Gogh tự nhận hết trách nhiệm để giúp hai cậu bé tránh bị trừng phạt.
Giả thuyết này tuy được nhiều người tán thành vì tình tiết cảm động song không được giới học giả nghiên cứu về van Gogh đánh giá cao. Trong cuộc phỏng vấn, Secretan không trực tiếp thừa nhận đã giết họa sĩ, và điều đó càng làm nảy sinh nhiều giả thuyết nhưng có rất ít bằng chứng xác thực.
Dù thực hư về cái chết của ông ra sao, song có một điều chắc chắn: tang lễ của ông là một sự kiện xúc động, những người đến đưa tiễn ông là những người biết và tôn trọng van Gogh ở cương vị một con người và một họa sĩ. Bernard kể lại rằng ông đã vội vã tới Auvers, nhưng khi đến nơi thì quan tài đã đậy nắp. Sau tang lễ, ông viết:
“Những bức tranh cuối cùng của họa sĩ được treo lên khắp bốn bức tường trong căn phòng đặt thi hài ông. Những bức tranh tạo thành vòng hào quang cho ông,và cái thiên tài toát ra từ chúng khiến cho cái chết này càng trở nên đau đớn hơn nữa đối với những người nghệ sĩ chúng tôi có mặt tại đó. Quan tài được phủ giản dị bằng một tấm vải trắng, xung quanh là vô số hoa, những đóa hướng dương mà họa sĩ hết mực yêu quý, những đóa thược dược vàng, hoa vàng khắp nơi. Đó là màu sắc yêu thích của ông, biểu tượng của ánh sáng mà ông mường tượng rằng nó tồn tại trong trái tim mỗi người cũng như trong các tác phẩm nghệ thuật.
Phía trước quan tài còn có giá vẽ, chiếc ghế gấp, và cọ vẽ của họa sĩ. Nhiều người đã tới dự tang lễ, chủ yếu là các họa sĩ, trong số đó tôi nhận ra Lucien Pissarro và Lauzet, những người khác tôi không biết. Ngoài ra còn có một vài người dân trong vùng, tuy không biết nhiều về ông, chỉ gặp ông một hai lần nhưng họ quý mến ông bởi ông thực tử tế, thực nhân hậu …”
Một số thông tin khác về van Gogh
Con đường sự nghiệp trắc trở của van Gogh
Van Gogh sinh ra trong một gia đình trung lưu giàu có; ông bắt đầu làm việc từ năm 16 tuổi khi được bác xin cho vào làm thợ học việc ở một công ty kinh doanh đồ nghệ thuật ở  The Hague. Sau đó, ông được công ty cử đi làm việc ở các chi nhánh ở London và Paris nhưng tới năm 1876, ông bị cho thôi việc. Sau đó, ông dạy học một thời gian ngắn ở Anh, sau đó quay về Hà Lan làm việc trong một cửa hàng bán sách. Năm 1878, ông tới Borinage, Bỉ và sống cùng với những người dân nghèo tại đây trên cương vị người thuyết giáo. Ông đã đem cho hết đồ đạc của mình và ngủ trên sàn nhà, nhưng chưa đầy một năm sau, tổ chức tôn giáo đài thọ cho ông nhận thấy rằng ông không phù hợp để làm mục sư nên đã sa thải ông. Lựa chọn nghề nghiệp tiếp theo của ông – họa sĩ – sẽ khiến tên tuổi ông nổi tiếng trên toàn thế giới, nhưng danh tiếng đó chỉ đến với ông sau khi ông qua đời.
Chiếc tai của van Gogh
Tháng Hai năm 1888, sau hai năm ở Paris, van Gogh chuyển tới thị trấn Arles ở phía nam nước Pháp; ông hi vọng sẽ thành lập được một cộng đồng nghệ sĩ ở đây. Ông mời họa sĩ Paul Gauguin mà ông đã gặp ở Paris tới ở cùng mình. Lúc này tên tuổi của Paul Gauguin cũng chưa được biết đến rộng rãi và như nhiều nghệ sĩ đương thời khác, ông luôn sống trong cảnh túng thiếu nên không đủ tiền để đến ở cùng van Gogh. Sau đó, được em trai van Gogh là Theo nhận trách nhiệm tài trợ cho việc ăn ở của mình, Paul Gauguin mới chuyển tới ở cùng nhà với van Gogh. Ban đầu, mối quan hệ giữa hai người bạn diễn ra tốt đẹp, nhưng dần trở nên căng thẳng. Đêm ngày 23 tháng Mười hai năm 1888, hai người cãi nhau và Gauguin rời khỏi nhà. Van Gogh chạy đuổi theo bạn ra phố, tay cầm một chiếc dao cạo; tuy nhiên, ông lại không tấn công bạn mình mà quay về nhà lấy dao tự cắt một phần chiếc tai trái rồi bọc nó lại trong một tờ báo và gửi cho một cô gái bán hoa giữ hộ. Đây là những thông tin đã được tiếp nhận rộng rãi, nhưng vào năm 2009, hai học giả người Đức đã ra mắt một cuốn sách trong đó họ đưa ra một giả thuyết khác về sự cố này. Theo họ, Gauguin là một người đánh kiếm cừ, nên trong lúc tranh cãi với van Gogh, ông đã dùng kiếm cắt tai của bạn mình. Vì không muốn để mất tình bạn nên van Gogh đã đồng ý che đậy sự thực để giúp Gauguin không bị tù giam.
Bác sĩ Gachet
Với bộ tóc màu đỏ, cũng có vẻ ngoài giống với van Gogh một cách kỳ lạ, và điều đó càng làm sâu sắc thêm sợi dây liên hệ giữa hai người. Van Gogh từng viết cho em gái Wilhelmina rằng: “Anh mới tìm được một người bạn thực sự là bác sĩ Gachet, có gì đó như tình anh em vậy, bọn anh giống nhau từ ngoại hình tới tâm hồn.”
Tuy vậy, ban đầu van Gogh dè dặt khi quan sát thấy rằng vị bác sĩ “lập dị” này cũng bị chứng “rối loạn thần kinh” trầm trọng như giới nghệ sĩ. Nhưng chẳng bao lâu sau, van Gogh bắt đầu lui tới nhà vị bác sĩ thường xuyên hơn, ăn cùng gia đình bác sĩ và vẽ chân dung ông và con gái. Một trong những bức tranh này – bức Chân dung Bác sĩ Gachet – nằm trong số những bức tranh nổi tiếng nhất của van Gogh,trong đó họa sĩ nhấn mạnh đến nỗi buồn bản nhiên của ông hơn là đến sự thông thái của ông trong ngành y. Khi miêu tả bức chân dung này cho Gauguin, van Gogh viết rằng vị bác sĩ sở hữu “cái biểu hiện rầu rĩ của thời đại chúng ta."
Nguồn: Quỳnh Ca - Tia Sáng



Paul Gauguin

Paul Gauguin
(Paris, 07 tháng 6 năm 1848 - Hiva Oa, ngày 08 tháng 5 năm 1903) là một họa sĩ người Pháp.

Được thành lập từ giữa những năm 80 của trường phái ấn tượng thế kỷ XIX, nó đã phá vỡ đi từ những biểu hiện tự nhiên dần dần nổi bật sự trừu tượng của tầm nhìn tranh ảnh, làm bằng các loại tấm phẳng của màu sắc tinh khiết và đơn giản hóa với sự từ bỏ quan điểm và những tác động của ánh sáng và bóng râm, trong một phong cách được gọi là syntheticism hoặc cloisonnisme, mà ông vẫn trung thành mặc dù phát triển nó trong suốt cuộc đời của mình và đưa nó đến sự trưởng thành đầy đủ ở các đảo trên biển Đông, khi ông đề xuất các chủ đề nghệ thuật đại diện cho các thỏa thuận hòa của cuộc sống con người với tất cả các dạng tự nhiên, theo một quan niệm sau đó được tổ chức dưới sự dân nguyên thủy.

từ Wikipedia












































Góc Thư giản

Khi thấy chữ nhỏ muốn cho to ra, hãy nhấn vô Ctrl Key (bên trái phía dưới bàn gõ) đồng thời gõ vô Key dấu + (góc phải phía trên). Nếu gõ một lần chữ chưa đủ lớn, thì gõ hai lần, ba lần ...
Ngược lại, Bấm Ctrl KeyKey dấu -( kế góc phải phía dưới ), chữ sẽ nhỏ lại.