Hôm đó, lũ học trò chúng tôi lao xao trước lớp chờ thầy tới. Không hiểu sao, hôm đó tôi lại láu táu hỏi giật các bạn:
“Lan phệ đến chưa?”
Lan phệ là hỗn danh lũ học trò con gái vẫn gọi lén thầy Lan. Tiếng trả lời ngay phía sau làm tôi bủn rủn tay chân trong tiếng khúc khích của chúng bạn:
“Nó đây rồi!”
Người trả lời là Trần Bích Lan, ông thầy dạy triết mà vóc dáng lại chẳng có vẻ gì khô cằn khắc khổ của triết gia như lũ học trò vẫn hình dung. Ông tỉnh khô bước vào lớp.
Tuổi học trò có kỷ niệm khó quên như vậy là nhờ những ông thầy triết nhân kiêm thi sĩ. Thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan đến với chúng tôi ở lứa tuổi đó. Giờ đây nếu chẳng còn nhớ gì về môn triết thì thơ ông vẫn khơi dậy những cảm xúc học trò. Ðây là nói về thơ Nguyên Sa thời trước, chứ sau này, cho đến khi ông gần mất, thơ ông đã vươn ra những không gian khác.
Tuổi ấu thơ của chúng tôi trùng hợp với tuổi xuân của Việt Nam Cộng Hòa, của miền Nam tự do sau Genève. Lúc đó, mọi người như đều khao khát cái mới, có lẽ một phần để đoạn tuyệt với một nửa đau thương bên kia Bến Hải. Phần nữa là do sự thôi thúc của miền Nam, vùng đất có sự khoáng đạt rất mới. Lúc đó, hình như một thế hệ nhà thơ đã xuất hiện, trong đó có người du học từ Pháp về. Nguyên Sa là một, và có lẽ nổi bật nhất, trong lớp người đó.
Nguyên Sa từ Paris về lại thổi vào Sài Gòn hương vị dịu mát của Hà Nội. Bài Áo Lụa Hà Ðông có tác dụng đến như vậy mà không lạ sao? Từ bài đó, tôi tin rằng khi nghe thơ Nguyên Sa người di cư từ miền Bắc đều nhớ về Hà Nội hoặc khí hậu tưởng như Hà Nội. Không mấy ai băn khoăn về Paris nữa dù lúc đó rất thời thượng, có một ma lực với người làm thơ ở Sài Gòn. Với Nguyên Sa, Paris có lẽ đã là tiền kiếp. Chứ Hà Nội, chứ miền Bắc và kỷ niệm ấu thời trước buổi di cư mới là hiện tại trong thơ.
Ðọc thơ Nguyên Sa - lúc đó, mới đọc thôi, chưa nghe và chưa hát - đọc thơ Nguyên Sa, lũ học trò đều thấy bồi hồi đến nóng đôi má vì ông viết thơ tình mà không hiểu sao, chúng tôi nhất quyết rằng đó là thơ tình cho học trò. Giờ này đây tôi vẫn nghĩ vậy và chỉ mong là thế hệ nào cũng có mấy cậu học trò pha mực làm thơ, khiến các cô gái đến tuổi đôi tám lại phân vân khi chọn màu áo đi học.
Thời đó, hầu như đứa nào trong chúng tôi cũng giấu trong cặp vài bài thơ, không Nguyên Sa thì Nhất Tuấn. Các nhà thơ ấy làm thơ cho lũ con gái kẹp tóc thời Sài Gòn còn thanh bình, và với tôi, kỷ niệm ấm êm đó vẫn là những gì đáng nhớ nhất. Không phải vậy sao, mỗi khi thấy mưa rào nổi bong bóng trên sân là mình lại nhớ về quê nhà, về tuổi mộng mơ còn vầy mưa ngoài ngõ, và thơ Nguyên Sa lại khua trong trí nhớ cả một trời ấu thơ đã mất.
Một điều phải nói ngay là thơ Nguyên Sa được phổ nhạc không nhiều bằng một số nhà thơ khác, nhưng bài nào đã được đưa vào nhạc là ngự trị mãi ở một vị trí rất cao.
Quỳnh Giao nghĩ rằng thơ Nguyên Sa khó phổ nhạc hơn nhiều bài khác vì tự nó đã có nét nhạc riêng, ở tiết tấu nhịp điệu riêng. Có bài đọc lên là đã như hát rồi. Mưa Tháng Sáu là một ví dụ làm tôi liên tưởng tới một bài luân vụ dìu dặt nhịp. Bài Cần Thiết cũng có giai điệu riêng, đọc lên đã thấy chất nhạc rất mới ở ý thơ. Người nhạc sĩ thật rất khó phả thêm hồn nhạc vào bài thơ đã có sẵn cái thần của nó.
Ngược lại, thơ của ông còn đòi hỏi nơi nhạc sĩ một sự hy sinh lớn, đó là dụng công làm nổi chất nhạc vốn có của bài thơ. Trước có Phạm Ðình Chương và sau có Ngô Thụy Miên là đã thành công như vậy. Nếu có yêu Màu Kỷ Niệm của Phạm Ðình Chương hay Áo Lụa Hà Ðông của Ngô Thụy Miên, chúng ta nên cám ơn sự cố gắng đầy tài hoa của hai nhạc sĩ này. Vì họ đem nhạc làm đẹp cho bài thơ, chứ không dùng bài thơ diễn tả chất nhạc của mình.
Hai điều đó khác nhau rất xa, và khi trình bày các ca khúc này, ca sĩ là người trước tiên cảm được điều đó.
Những người quen Nguyên Sa thường nói rằng ông chính là một enfant terrible mà làm gì cũng phải thành công thì thôi, chứ không phải là con người thơ, lãng mạn với thơ tình. Quỳnh Giao không dám luận bàn về mấy điều ấy và cho rằng Nguyên Sa đi tới thành công ở thơ.
Ông là người làm thơ đã thổi vào tuổi thơ của nhiều thế hệ chúng tôi những rung động đầu đời, khi thấy cây lá xôn xao nơi sân trường. Và điều đó là đáng kể nhất. Nguyên Sa không còn nữa, nhưng cầm thơ ông trên tay, đọc thơ ông ở trong trí, hát thơ ông khi nhìn ra khoảnh vườn, Quỳnh Giao thấy màu xanh của kỷ niệm vẫn nuột nà mơn mởn.
Nguyên Sa để lại một cây cầu vẫn đưa chúng tôi về quê hương và tuổi thanh xuân của mình...
Quỳnh Giao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét